hình ảnh lưỡi người nhiễm hiv
Tác giả: benh.vn Ngày đăng: 02/07/2022 Đánh giá: 4.69 (354 vote) Tóm tắt: · Oral sex giúp hầu như mọi người đều thỏa mãn được cái cảm giác thực trong tình dục. Dưới đây là những cách khiến cho việc quan hệ bằng miệng của Khớp với kết quả tìm kiếm: Không phải cứ Oral sex là sẽ mắc bệnh , bạn chỉ mắc
Vùng da nhiễm bệnh xuất hiện những nốt sùi nhỏ với kích thước 1 - 2mm, màu hồng và mọc đơn lẻ. Những nốt sùi mọc đơn lẻ, rải rác trên da, không gây đau và ngứa. Các nốt sùi ở giai đoạn đầu thường xuất hiện ở rãnh quy đầu, bao quy đầu, thân dương vật và bìu
Theo bác sĩ Nguyễn Xuân Quang (Bệnh viện Hữu nghị Quốc tế), quá trình nong tai phải hết sức cẩn thận. Kim xuyên tai phải đảm bảo được tiệt trùng, nếu không tai sẽ bị nhiễm trùng, mưng mủ rất khó chịu. Bệnh nặng có thể kéo đến đau đầu, mất ăn mất ngủ và có
Ví dụ: trường đúng theo quan hệ nữ giới - nữ ở người lưỡng tính, toàn tính luyến ái tốt dị tính. Bạn đang xem: Hình ảnh của người đồng tính nữ. Mối tình dục "đồng giới nữ" bao gồm thể bao hàm những người dân có âm đạo, dương vật và người có thành
Lưỡi hái tử thần vô hình trong lòng IS. Nguy cơ lây nhiễm HIV/AIDS gia tăng và hệ thống y tế yếu kém tại thành trì nhóm Nhà nước Hồi giáo (IS) ở Syria đang là những lưỡi hái tử thần, cứa mạnh vào hàng ngũ nhóm cực đoan. Bệnh viện tại Raqqa bị tàn phá bởi đợt không
Site De Rencontre Gratuit Et International. Những người nhiễm HIV có nhiều khả năng phát triển các vấn đề về sức khỏe răng miệng, do virus có thể làm suy yếu hệ thống miễn dịch, khiến việc chống nhiễm trùng trở nên khó khăn Tổ chức Y tế Thế giới WHO, khoảng 40%-50% người nhiễm HIV bị nhiễm trùng miệng có thể gây ra các biến chứng ở miệng, bao gồm cả vết miệng có thể gây đau làm ảnh hưởng đến việc ăn, nuốt và uống thuốc ở người nhiễm HIV. 1. Herpes miệngHerpes miệng có thể gây ra vết loét đỏ đau ở môi, nướu, lưỡi và bên trong má. Những tổn thương này thường được gọi là vết loét lạnh hoặc mụn nước sốt. Nguyên nhân là do nhiễm virus Herpes simplex HSV.Herpes miệng do virus Herpes simplex gây nên làm loét triệu chứng khác có thể bao gồm Sốt, mệt mỏi, đau cơ, sưng hoặc đau hạch bạch huyết, cảm giác nóng rát hoặc ngứa ran gần vết cứ ai cũng có thể bị Herpes miệng, nhưng HIV làm tăng nguy cơ nhiễm trùng cơ hội, chẳng hạn như HSV. Những người nhiễm HIV không được điều trị có thể trải qua các đợt bùng phát lạnh kéo dài và nghiêm trọng rất dễ lây lan. Có thể nhiễm Herpes miệng thông qua tiếp xúc trực tiếp với nước bọt hoặc vết loét lạnh của người bị nhiễm trùng. Có thể giảm nguy cơ nhiễm HSV bằng cách không hôn hoặc chia sẻ thức ăn với người bị Herpes miệng, đặc biệt là trong khi bùng cũng có thể gây ra mụn rộp sinh dục, có thể lây truyền khi quan hệ tình dục qua đường âm đạo, hậu môn hoặc có thể điều trị bằng thuốc kháng virus uống, như acyclovir hoặc valacyclovir…2. Virus gây u nhú ở ngườiNhiễm trùng Papillomavirus HPV là phổ biến ở những người nhiễm HIV. HPV có thể gây ra những vết sưng nhỏ màu trắng, hoặc mụn cóc trên và xung quanh miệng và môi. HPV cũng có thể gây ra mụn cóc ở bộ phân sinh dục, rất dễ lây lan. Một người có thể nhiễm HPV khi quan hệ tình dục bằng miệng nếu virus xâm nhập vào máu thông qua vết cắt hoặc vết rách trong miệng, có thể gây loét miệng, khó nuốt, đau họng…Để giảm nguy cơ nhiễm trùng đường miệng bao gồm - Tiêm vaccine HPV, - Sử dụng bao cao su khi quan hệ, - Chung thủy, - Bỏ hút thuốc và các sản phẩm thuốc lá khác…Không có cách chữa trị cho HPV. Rất khó điều trị mụn cóc HPV bằng thuốc bôi, vì vậy các bác sĩ có thể cần phải loại bỏ chúng bằng phẫu Nhiệt miệngNhiệt miệng còn gọi là loét aphthous là vết loét nhỏ, nông, xuất hiện ở những mô mềm trong miệng như môi, bên trong má, nướu. Thông thường vết nhiệt ở miệng có màu trắng, đôi khi có màu vàng, viền xung quanh là màu đỏ, chúng có dạng hình tròn hoặc oval. Nhiệt miệng còn gọi là loét nhiều yếu tố nguy cơ gây nhiệt miệng như chấn thương miệng, chăng thẳng, thiếu vitamin và chức năng miễn dịch yếu. Vết loét này không lây nhiễm. Có thể giảm nguy cơ loét miệng bằng cách - Tránh và kiểm soát căng thẳng; - Tránh thực phẩm và đồ uống có tính axit hoặc axit; - Nhai cẩn thận để tránh làm tổn thương miệng; - Ăn một chế độ ăn uống cân bằng và lành mạnhĐối với vết loét nhẹ, súc miệng bằng nước súc miệng không kê đơn có thể làm giảm viêm và giữ cho vết loét sạch sẽ. Trong trường hợp nghiêm trọng, bác sĩ hoặc nha sĩ có thể kê toa thuốc mỡ và nước súc miệng để giảm thiểu đau đớn và trị Nấm miệngNhững người có hệ thống miễn dịch bị tổn thương có thể có nguy cơ mắc bệnh nấm miệng cao miệng là một bệnh nhiễm trùng biểu hiện dưới dạng các mảng trắng hoặc vàng trên lưỡi, vòm miệng hoặc bên trong cứ ai cũng có thể bị nấm tưa miệng, nhưng trẻ sơ sinh, người già và những người có hệ miễn dịch yếu có nguy cơ cao triệu chứng khác có thể bao gồm - Cảm giác nóng rát có thể gây khó nuốt; - Mất vị giác; - Khô miệng. Có thể điều trị tưa miệng bằng nước súc miệng chống nấm và Khô miệngHIV có thể làm cho tuyến nước bọt sưng lên, điều này có thể dẫn đến giảm sản xuất nước bọt và khô miệng. Nước bọt bảo vệ răng và nướu khỏi mảng bám và giúp chống nhiễm trùng. Khô miệng cũng có thể là tác dụng phụ của thuốc điều trị chứng khô miệng bao gồm - Khó nhai và nuốt thức ăn khô; - Khó nói; - Lưỡi đau; - Viêm lưỡi; - Loét lưỡi, hôi thể điều trị khô miệng bằng cách giữ cho miệng sạch và bổ sung nước. Nếu khô miệng kéo dài, cần đi khám để được điều trị thích hợp vì khô miệng có thể dẫn đến các biến chứng khác, chẳng hạn nbệnh nướu độc giả xem thêm video được quan tâmTrung tâm 'Hy vọng' - Lắng đọng những yêu thương
Loét miệng HIV là một trong những dấu hiệu sớm của bệnh ngay từ những giai đoạn đầu tiên. Tình trạng không chỉ gây cản trở và nhiều phiền phức đến cuộc sống thường ngày, viêm loét miệng còn tạo điều kiện cho nhiễm trùng, dẫn đến các rủi ro khác về sức khỏe. Vậy điều gì gây ra viêm loét miệng HIV giai đoạn đầu? sao bệnh nhân bị viêm loét miệng HIV? Lở miệng HIV là triệu chứng phổ biến, gặp ở hầu hết bệnh nhân của căn bệnh này ngay cả khi bệnh vẫn còn ở giai đoạn đầu. Theo tổ chức Y tế Thế giới WHO, có đến 40% đến 50% bệnh nhân HIV gặp phải tình trạng nhiễm trùng ở miệng, dẫn đến vết loét và vết lở. Tình trạng này không chỉ gây đau đớn và ngăn cản hoạt động ăn uống, uống thuốc ở bệnh nhân mà còn là tiền đề cho nhiều biến chứng nguy hiểm nhân dẫn đến tình trạng viêm loét miệng HIV rất đa dạng, trong đó thường gặp nhất là 5 nguyên nhân Loét miệng HIV giai đoạn đầu do Herpes ở miệngKhi nhiễm HIV, bệnh nhân cũng có nguy cơ cao nhiễm một loại virus gây loét khác là virus Herpes Simplex hay HSV. Loại virus này khi tấn công vào khu vực miệng sẽ tạo ra tình trạng loét đỏ tại hầu hết vị trí, bao gồm môi, lưỡi, nướu và vùng bên trong má. Hầu hết các vết loét do virus này gây ra đều là vết loét lạnh, hoặc dạng mụn ra, khi bị Herpes miệng, bệnh nhân cũng có một số biểu hiện khác như sốt nhẹ, đau nhức cơ, cơ thể suy nhược, sưng và đau các hạch bạch huyết, nóng rát người...Đây là một loại nhiễm trùng cơ hội xảy ra đối với bệnh nhân bị nhiễm HIV. Tuy nhiên, bất kỳ ai cũng có nguy cơ bị loại virus này tấn công. Trên thực tế, virus HIV có tốc độ lây lan mạnh mẽ thông qua tiếp xúc trực tiếp với nước bọt hay vết loét của bệnh nhân bị nhiễm chỉ gây các vết lở loét ở miệng, HIV cũng là nguyên nhân gây ra tình trạng mụn rộp ở bộ phận sinh dục, hậu môn... nếu có sự tiếp xúc trực Virus HPV cũng gây ra tình trạng lở miệng HIVBị HIV tạo cơ hội cho vô số các loại tác nhân khác tấn công, trong đó có virus HPV. HPV là virus gây u nhú ở người và chúng là nguyên nhân hàng đầu gây ra bệnh ung thư cổ tử cung ở phụ nữ. Ngoài ra, loại virus này cũng lây lan và gây ra ung thư hậu môn / ung thư miệng nếu bệnh nhân quan hệ thiếu an toàn với người khỏe nhiễm trùng HPV ở miệng, quanh miệng sẽ xuất hiện các vết sưng trắng, kích thước nhỏ, mụn cóc, loét lở miệng, đau họng và khó nuốt khi ăn uống... Lở miệng HIV có thể do virus HPV gây ra Loét miệng HIV do nhiệt miệngNhiệt miệng hay còn có tên gọi khác là loét Aphthous, bao gồm các vết loét nông và nhỏ, xuất hiện nhiều ở vùng mô mềm quanh miệng như bên trong má, nướu, môi... Các vết loét này có màu trắng hoặc màu vàng với viền đỏ, hình oval hoặc hình tròn, kích thước đa với những nguyên nhân phía trên, nhiệt miệng có thể xảy ra với bất kỳ đối tượng nào, dù khỏe mạnh hay đang đau yếu, thậm chí xuất hiện định kỳ hàng tháng. Nguyên nhân gây ra nhiệt miệng rất phong phú, bao gồm căng thẳng kéo dài, ăn đồ cay nóng, các chấn thương ở miệng, thiếu hụt vitamin và khoáng chất...Trong đó, bệnh nhân HIV bị suy yếu hoạt động miễn dịch cũng là một trong những nguyên nhân khiến nhiệt miệng phát triển, tuy nhiên các vết loét miệng HIV này không có tính lây nhiễm. Nếu được chẩn đoán là bị nhiệt miệng, bạn chỉ cần súc miệng bằng nước muối hoặc nước súc miệng, giữ khoang miệng sạch sẽ, điều chỉnh chế độ ăn uống lành mạnh... sẽ cải thiện nhanh chóng. 2. Viêm loét miệng HIV giai đoạn đầu vì nhiễm nấm miệng Đối với những đối tượng có sự suy yếu trong hệ thống miễn dịch, nguy cơ nhiễm nấm ở miệng sẽ cao hơn rất nhiều. Vì vậy, bệnh nhân HIV hoàn toàn có khả năng bị lở miệng vì nguyên nhân bị nấm miệng, khu vực vòm miệng, lưỡi và bên trong má sẽ xuất hiện các mảng trắng hoặc mảng vàng. Một số biểu hiện triệu chứng khác có thể gặp khi bị nấm miệng làNóng rát họng, khó miệng dữ ăn và mất vị giácKhô miệng gây viêm loét miệng HIVVirus HIV sẽ làm tuyến nước bọt của cơ thể sưng lên và giảm lượng nước bọt sản xuất được, khiến miệng bị khô nghiêm trọng. Khi đó, khu vực trong miệng sẽ không thoát khỏi mảng bám cũng như tình trạng nhiễm trùng. Loét miệng hiv có thể gây ra tình trạng khó nuốt 3. Viêm loét miệng có phải bị HIV không? Tất nhiên một bệnh lý không do một triệu chứng bất kỳ nào tạo thành, và HIV cũng vậy. Viêm loét miệng chỉ là một trong nhiều triệu chứng phổ biến của HIV, nhưng không thể chỉ dựa vào biểu hiện này để chẩn sẽ có nhiều nguy cơ mắc phải HIV giai đoạn sớm nếu ngoài loét miệng, cơ thể có thêm các triệu chứng Sốt nhẹ thường xuyênỞ giai đoạn cửa sổ ARS của bệnh HIV, cơ thể bệnh nhân thường bị sốt nhẹ 38 độ C đến 39 độ C và kèm thêm các triệu chứng như đau họng, sưng hạch bạch huyết, suy nhược cơ thể... Đây chính là các phản ứng của hệ miễn dịch khi virus di chuyển dần vào máu và bắt đầu nhân ra, bạn cũng sẽ có một số triệu chứng khác như đau đầu, đau nhức các khớp và cơ bắp. Giai đoạn ARS rất thường bị nhầm với bệnh cảm cúm thông thường hoặc các nhiễm trùng virus Cảm thấy buồn nôn và nôn ói, tiêu chảyCó khoảng 30% đến 60% bệnh nhân bị HIV sẽ bị ói mửa và tiêu chảy thường xuyên ở giai đoạn đầu của HIV, đặc biệt là sau khi điều trị kháng virus. Đây là hậu quả từ các nhiễm trùng cơ hội do Sụt cân không rõ nguyên nhânGiảm cân một cách bất thường ngay cả khi đã ăn rất nhiều là dấu hiệu cho thấy bệnh đã tiến triển đến giai đoạn nghiêm trọng Phát ban ngoài da cũng là dấu hiệu HIV sớmTrong quá trình bị nhiễm virus HIV, dù sớm hay muộn, da của bạn cũng sẽ xuất hiện các ban màu hồng hoặc màu đỏ tạo ra cảm giác khó chịu và ngứa ngáy. Ngoài ra, bạn cũng dễ bị cảm lạnh và dị ứng hơn. 4. Dấu hiệu HIV sớm ở phụ nữ Đối với phụ nữ, dấu hiệu nhiễm HIV sớm bao gồmDễ bị nhiễm nấm men hơn. Đây là loại nấm gây ra viêm âm đạo phổ biến, ngoài ra cũng có thể gây viêm miệng và thực quản, biểu hiện gồm các mảng loạn kinh nguyệt với thời gian hành kinh và lượng máu kinh ít hơn đáng thể nói, dấu hiệu viêm loét miệng HIV là một trong những biểu hiện sớm trong giai đoạn đầu của bệnh, có thể xảy ra vì nhiều nguyên nhân. Tuy nhiên, để biết chính xác bạn có bệnh hay không, cần có sự kiểm tra từ bệnh viện. Để đặt lịch khám tại viện, Quý khách vui lòng bấm số HOTLINE hoặc đặt lịch trực tiếp TẠI ĐÂY. Tải và đặt lịch khám tự động trên ứng dụng MyVinmec để quản lý, theo dõi lịch và đặt hẹn mọi lúc mọi nơi ngay trên ứng dụng. XEM THÊM Quan hệ bằng miệng có nhiễm HIV không? Sẩn giang mai giang mai kín phát hiện thế nào? Sự phát triển của bệnh sùi mào gà
Các biểu hiện vùng miệng liên quan đến nhiễm HIV thường gặp ở bệnh nhân BN nhiễm HIV 30%- 80% nhưng ít được chú ý đến và không được xử trí đúng mức. Đang xem Hình ảnh lưỡi người nhiễm hiv Ngoài xuất độ cao, đây còn là một nhóm tổn thương có ý nghĩa về nhiều mặt và được chú ý đến ngay từ thời kỳ mới xuất hiện dịch bệnh vì – Những tổn thương này xảy ra trong miệng và do đó tương đối dễ phát hiện và dễ theo dõi. – Những tổn thương này thường xảy ra khi bắt đầu có tình trạng suy giảm miễn dịch và do đó mang tính báo trước cho sự chuyển giai đoạn AIDS. – Những tổn thương này ảnh hưởng đến chức năng ăn nhai nên càng làm cho bệnh nhân suy yếu hơn về thể chất và khả năng đề kháng. – Gần đây, khi BN được điều trị theo chế độ HAART, có sự thay đổi trong tỉ lệ cũng như mô hình các tổn thương niêm mạc miệng. Các yếu tố làm tăng nguy cơ bị những tổn thương vùng miệng liên quan HIV bao gồm – Số CD4 3000 phiên bản ARN/ml, tình trạng khô miệng, vệ sinh răng miệng kém, hút thuốc lá. Khi phát hiện tổn thương ở người chưa biết mình bị nhiễm HIV, sự hiện diện của tổn thương liên quan HIV khiến phải nghĩ đến tình trạng nhiễm HIV và xét nghiệm để xác định, đối với BN bị nhiễm HIV chưa điều trị ART, sự xuất hiện tổn thương là dấu hiệu bệnh đang tiến triển, đối với người nhiễm HIV đang điều trị HAART, việc xuất hiện một vài loại tổn thương là dấu hiệu của sự tăng trở lại nồng độ HIV-1 RNA trong huyết tương. II. các tổn thương niêm mạc miệng liên quan nhiễm HIV Năm 1996, Cộng đồng Kinh tế Châu Âu công bố bảng phân loại của các biểu hiện vùng miệng của bệnh nhiễm HIV như sau NHIỄM NẤM Nhiễm Candida dạng màng giả, dạng ban đỏ, dạng tân sinh, chóc mép. Nhiễm Histoplasma, Cryptococcus, Geotrichosis. NHIỄM KHUẨN Viêm nướu hoại tử – HIV, Viêm nướu- HIV, Viêm nha chu- HIV. Tổn thương viêm nhiễm do Mycobacterium avium intracellulare, Klebsiella pneumoniae, Enterobacterium cloacae, E. Coli. Actinomycosis, Bệnh mèo quào, Viêm xoang, nhiễm trùng do răng,… NHIỄM VIRUS Herpes Simplex Virus. Cytomegalovirus. Epstein- Bar virus Bạch sản tóc. Varicella – Zona virus thủy đậu, zona. Human papilloma virus Verruca vulgaris, Condyloma acuminata, Focal epithelial hyperplasia. TÂN SINH Kaposi sarcoma. Carcinoma tế bào vẩy. Lymphoma không Hodgkin. RỐI LOẠN THẦN KINH Bệnh dây thần kinh tam thoa. Liệt mặt. KHÔNG RÕ NGUYÊN NHÂN Loét áp tơ tái phát. Tiêu biểu mô do ngộ độc. Thiếu tiểu cầu nguyên phát. Khô miệng. Loét không điển hình. Chậm lành thương. Phì đại tuyến nước bọt. Tăng nhiễm sắc Melanin. NHIỄM NẤM Nhiễm Candida ngay từ những báo cáo đầu tiên năm 1981 về hội chứng AIDS đã có đề cập đến nhiễm Candida vùng miệng. Tuy nhiên, hầu như mọi trường hợp mô tả lúc đó đều ở dạng màng giả. Sau này, các dạng khác như dạng ban đỏ, tăng sinh và chóc mép đều được báo cáo với những tỉ lệ khác nhau ở người huyết thanh dương tính. Nhiễm Candida dạng màng giả hiện diện như những mảng trắng hay vàng vàng trên niêm mạc đỏ hay bình thường. Khi cạo, mảng trắng tróc ra để lại một bề mặt ướm máu. Vị trí thường gặp ở khẩu cái, niêm mạc má, môi và lưng lưỡi. Nhiễm Candida dạng tăng sinh đặc trưng là những mảng trắng không thể cạo đi được. Vị trí thường gặp là niêm mạc má, lùi về phía trong, ngược với vị trí gần khóe mép thường gặp ở những người không bị nhiễm HIV. Nhiễm Candida dạng ban đỏ hay dạng teo biểu hiện dưới dạng tổn thương màu đỏ sậm nổi bật hay rất kín đáo. Vị trí thường gặp ở khẩu cái, lưng lưỡi làm mất gai lưỡi, dạng nhiễm này tuy rất đặc trưng của nhiễm HIV nhưng thường bị bỏ qua vì ít gây triệu chứng lâm sàng và không làm cho bệnh nhân khó chịu. Chóc mép xảy ra khi bệnh nhân ở vào tuổi trung niên và không kèm theo các yếu tố bệnh căn của chóc mép thông thường như thiếu máu, thiếu vitamin, mất kích thước dọc. Tỉ lệ người nhiễm HIV có kèm nhiễm nấm candida thay đổi rất nhiều tùy theo tiêu chuẩn chẩn đoán nhiễm nấm và mẫu điều tra vào khoảng 66%. Nhiễm nấm candida đã được nghiên cứu như một dấu hiệu báo trước sự chuyển sang giai đoạn AIDS, đặc biệt là nhiễm candida dạng màng giả. Klein so sánh 22 bệnh nhân bị hạch toàn thân, có tỉ lệ T4/T8 đảo ngược, đồng thời bị nhiễm candida dạng màng giả, với 20 bệnh nhân ở tình trạng tương tự nhưng không bị nhiễm candida. Theo dõi trong 3 tháng cho thấy ở nhóm thứ nhất có 59% chuyển sang giai đoạn AIDS với sự xuất hiện của những nhiễm trùng cơ hội nặng, hoặc sarcom Kaposi trong khi ở nhóm thứ nhì không có người nào chuyển sang AIDS. Như vậy, có thể kết luận là một sự suy giảm số tế bào Lympho T4 cùng với sự nhiễm nấm candida là một dấu hiệu tiên lượng xấu, báo trước cho sự xuất hiện AIDS ở bệnh nhân nhiễm HIV. Chẩn đoán lâm sàng có thể xác định bằng soi tươi hoặc sinh thiết, cho thấy tế bào nấm ở dạng sợi phân nhánh hay bào tử. Điều trị tại chỗ dung dịch súc miệng tím gentian, Clotrimazole viên ngậm 10mg 5 lần/ ngày x 14 ngày, dung treo Nystatin đv. súc 5 ml x 4 lần/ ngày x 14 ngày, viên ngậm Nystatin viên đv x 4 lần/ x 14 ngày. Xem thêm Điều trị toàn thân Fluconazole, viên 100 mg x 2 trong ngày đầu, 1 viên/ ngày trong 14 ngày kế tiếp. NHIỄM KHUẨN Bệnh nha chu liên quan nhiễm HIV Thường có những biểu hiện trầm trọng hơn bệnh nha chu thông thường, đáp ứng kém hơn với điều trị kinh điển, tiến triển nhanh hơn, gây mất xương và lộ chân răng nhiều hơn. Viêm nướu viền đỏ Dấu hiệu thường là một đường viền đỏ ở nướu với những điểm viêm đỏ ở niêm mạc xương ổ, nướu dễ chảy máu dù vệ sinh răng miệng tốt và ít có tích tụ mảng bám. Các điểm viêm đỏ có thể do sự bội nhiễm Candida. Đôi khi thấy gai nướu sưng phồng ở vài vị trí. Nha chu viêm Mô nha chu bị tiêu hủy nhanh chóng, đau nhức nhiều, răng lung lay. Trái với bệnh nha chu thông thường, có sự tiêu mất các mô nâng đỡ nhưng túi không sâu. Có thể kèm viêm nướu lở loét hoại tử. Viêm nha chu lở loét hoại tử thường chỉ gặp ở trẻ suy dinh dưỡng, hay bị các bệnh làm suy giảm hệ thống miễn dịch. Ở người trưởng thành bị nhiễm HIV cũng dễ thấy bệnh này. Các vi khuẩn gây bệnh, ngoài một số vi khuẩn thường gặp trong các bệnh nha chu, còn có một số vi khuẩn kỵ khí có độc tính rất cao như Eikenella, Wollinella, Bacteroides, do tình trạng nhiễm HIV tạo những điều kiện thuận lợi làm cho tạp khuẩn trong khe nướu chuyển đổi sang các giống vi khuẩn có tính gây bệnh mạnh hơn. Thường các bệnh nhân bị nha chu viêm có hệ số T4/T8 thấp hơn các bệnh nhân bị viêm nướu, đồng thời có sự khiếm khuyết của chức năng bạch cầu đa nhân. Điều trị các dạng bệnh nha chu ở người nhiễm HIV phải được điều trị bằng biện pháp vệ sinh răng miệng kỹ lưỡng, có thêm biện pháp rửa các tổn thương với Betadine 10% và súc miệng hàng ngày với 0,12% chlorhexidine gluconate cho đến khi khỏi bệnh. Bệnh nhân bị đau và có tổn thương cấp tính phải được điều trị kháng sinh chống vi khuẩn yếm khí gram âm như Metronidazole viên 500 mg x 2 lần/ x 7- 10 ngày, hoặc Clindamycine và Amoxycilline. Đồng thời phải xử lý đau và tăng cường dinh dưỡng. Nhiễm khuẩn Lao Nhiễm khuẩn Lao Mycobacterium tuberculosis tăng một cách đáng kể ở người nhiễm HIV. Tổn thương do Lao trong miệng có thể xuất hiện như một vết loét ở lưỡi. Nhiễm Mycobacterium avium cellulare MAI gây nhiễm trùng phổi, trong miệng có thể tạo vết loét có phản ứng viêm hạt và hoại tử xương. Nhiễm Klebsiella pneumoniae và Enterobacterium cloacae có thể gây viêm loét ở lưỡi, khẩu cái. NHIỄM VIRUS Nhiễm Herpes Simplex Virus HSV ở bệnh nhân nhiễm HIV, viêm miệng Herpes xảy ra với tỷ lệ 5-13%, gây tổn thương trầm trọng và lan tỏa hơn là ở người không nhiễm HIV, bệnh dai dẳng, khó điều trị dứt điểm và dễ tái phát. Điều trị tại chỗ bằng Acyclovir. Nhiễm Varicella Zoster virus VZV có thể xem như một triệu chứng sớm của nhiễm HIV, ở bệnh nhân HIV khi bị nhiễm virus VZV có 23% bị AIDS sau 2 năm và 46% sau 4 năm. Điều trị toàn thân Acyclovir viên 800mg x 4 viênx 10 ngày. Nhiễm Human papilloma Virus HPV nhiễm HIV có vẻ làm cho dễ nhiễm HPV vùng miệng với những type HPV ít gặp như type 13, 18, 32 và gây tổn thương phần mềm như papilloma, verruca, condyloma, focal epithelial hyperplasia, carcinoma. Điều trị tại chỗ bằng 5-fluorouracil. Bạch sản tóc Hairy Leucoplakia Bạch sản tóc được mô tả đầu tiên vào cuối năm 1981 ở San Francisco, sau đó được ghi nhận khá phổ biến ở bệnh nhân nhiễm HIV ở nhiều nước. Đó là một tổn thương thường gặp ở bệnh nhân đang ở giai đoạn muộn của nhiễm HIV và AIDS dưới dạng một mảng màu trắng, thường thấy ở hông lưỡi, ở cả 2 bên. Bề mặt có nếp xếp giống như tóc, có khi có bề mặt phẳng, nhẵn láng. Vị trí thường gặp ở hông lưỡi, bụng lưỡi và ít gặp ở niêm mạc má, môi, sàn miệng, khẩu cái mềm, yết hầu. Có khi tổn thưong gây đau rát do bội nhiễm candida. Hình ảnh mô học cho thấy sự tăng sinh lớp gai và lớp sừng, làm cho lớp biểu mô dày lên và có khi tạo những nếp xếp hình sợi tóc. Trong lớp biểu mô thấy có những tế bào phình to hơi giống các koilocyte của nhiễm HPV. Các xét nghiệm labo cho phép phát hiện Epstein – Bar virus EBV trong các tổn thương này. Hiện nay, có 2 giả thuyết để thử giải thích tại sao EBV bội nhiễm ở niêm mạc miệng, hoặc là do nhiễm HIV làm mất tế bào Langerhans khiến cho EBV có sẵn tại chỗ được hoạt hóa hoặc thụ thể EBV trên tế bào hong lưỡi bị lộ tối đa khi nhiễm HIV, cho nên dễ gắn virus EBV. Bạch sản tóc là một tổn thương được xem là đặc trưng nhất của nhiễm HIV vùng miệng và cho phép tiên đoán sự tiến gần đến giai đoạn AIDS, tuy nhiên cần phải chẩn đoán sai biệt với một số tổn thương trắng khác. Không cần điều trị bạch sản tóc trừ khi có yêu cầu thẩm mỹ. Ở bệnh nhân được điều trị ART, sự xuất hiện của bạch sản tóc là một dấu hiệu của điều trị thất bại. TÂN SINH 3 loại tân sinh có ghi nhận liên quan đến nhiễm HIV. Những tân sinh này, hoặc là do tác nhân sinh ung, virus sinh ung làm cho ung thư xảy ra ở người suy giảm miễn dịch, hoặc là do một cơ chế gây bệnh nào khác. Sarcom Kaposi Năm 1872, Moritz Kaposi mô tả một loại bướu gọi là “Sarcom nhiều ổ nguyên phát gây xuất huyết” và xem đó là một bướu ác tính của các tế bào thành mao mạch, xuất hiện ở người Phi Châu với một tỉ lệ rất thấp. Khi dịch bệnh HIV xuất hiện ở San Francisco, sarcom Kaposi gây sự chú ý vì xuất hiện nhiều ở nhóm đồng tính luyến ái, và tác nhân gây bệnh được nghi ngờ là virus CMV, herpes… Tuy nhiên, các cố gắng để phân lập virus đều thất bại. Hiện nay, không thể loại trừ khả năng Sarcom Kaposi không phải là một loại tân sinh thật sự mà là kết quả của sự tăng sinh mạch máu do HIV kích thích một yếu tố tăng sinh mạch máu angioproliferative factor. Ở bệnh nhân AIDS, sarcom Kaposi thường có những tổn thương nhiều ổ, khởi đầu là dạng ban đỏ, sần hay hòn đỏ xuất hiện ở da hay niêm mạc. Ngoài da, vị trí hay gặp là ở thân người, chân, tay. Ở mặt vị trí đặc trưng là đầu mũi. Tổn thương ở da lan rông và sậm màu dần, và các tổn thương lân cận thì dễ dính lại với nhau. Ngoài ra, sarcom Kaposi có thể ảnh hưởng đến các phủ tạng. Trong miệng, sarcom Kaposi được để ý đầu tiên vào năm 1982 ở nhóm đồng tính luyến ái ở San Fracisco và sau đó, năm 1988, một nghiên cứu theo dõi trên 134 bệnh nhân cho thấy tổn thương này thường xuất hiện vào tuổi trung bình là 34 tuổi, 45% có đồng thời với tổn thương da và 22% xuất hiện trước. Sarcom Kaposi trong miệng có thể xem là dấu hiệu đầu tiên của giai đoạn AIDS .Vị trí thường gặp trong miệng là khẩu cái, đặc biệt là ở một bên khẩu cái, kế đến là nướu và lưỡi. Tổn thương bắt đầu như một mảng đỏ hơi xanh hay đen kế đến to dần, sậm màu và nổi gồ lên, có bề mặt lở loét hay nhiều múi. Tổn thương thường hơi rắn trước khi loét bề mặt. Hình ảnh vi thể của Sarcom Kaposi rất đặc trưng, cho thấy có sự tăng sinh những dãy tế bào nội mô hình thoi hay hơi phình, đan vào nhau và rất nhiều mạch máu. Khi Sarcom Kaposi xuất hiện đồng thời với một nhiễm trùng cơ hội, thời gian sống sót trung bình của bệnh nhân từ 6 đến 9 tháng. Sarcom Kaposi ít được ghi nhận ở BN nhiễm HIV ở Thái Lan và Việt Nam. Điều trị bằng cách tiêm Vinblastine sulfate tại tổn thương. Lymphom không Hodgkin NHL NHL xuất hiện ở bệnh nhân nhiễm HIV với tỉ lệ cao hơn ở người bình thường. NHL thường liên quan đến tế bào Lympho B va có thể chứa virus EBV. NHL rất hiếm gặp trong miệng so với các vị trí khác như hạch lympho, tủy xương, gan và màng não. Trong miệng vị trí được ghi nhận là vòng Waldeyer, nướu và tuyến mang tai, làm mô mềm tăng sinh và hủy hoại xương bên dưới. Carcinom tế bào vảy Ở bệnh nhân nhiễm HIV, có báo cáo cho thấy carcinom tế bào vẩy xuất hiện trong miệng đặc biệt ở lưỡi. Hiện nay có giả thuyết cho rằng tỉ lệ ung thư miệng cao ở người trưởng thành trẻ phái nam được cho là có thể liên quan với nhiễm HPV. KHÔ MIỆNG Khô miệng là nguyên nhân chính gây sâu răng ở người nhiễm HIV. 30%- 40% người nhiễm HIV bị khô miệng do sự thâm nhiễm tế bào CD8 trong các tuyến nước bọt lớn có thể gây phì đại tuyến hai bên hoặc do tác dụng phụ của các thuốc ART như didanosine. Những thay đổi về chất và lượng của nước bọt dễ dẫn đến sự giảm khả năng kháng khuẩn, đa sâu răng và viêm nha chu. Người nhiễm HIV nghiện ma túy hay sử dụng methamphetamine, có nguy cơ bị đa sâu răng do khô miệng, nhu cầu ăn đường cao, dinh dưỡng kém và vệ sinh răng miệng kém cùng với tác dụng soi mòn của các chất acid và chất tẩy có trong methamphetamine tinh thể. Xem thêm III. PHÒNG NGỪA CÁC BIỂU HIỆN VÙNG MIỆNG CỦA NHIỄM HIV Để phòng ngừa các biểu hiện miệng của nhiễn HIV cần Tăng cường các biện pháp vệ sinh răng miệng cá nhân, súc miệng bằng dung dịch tím gentian pha loãng và dung dịch kháng khuẩn, Đi khám định kỳ để điều trị sớm sâu răng, bệnh nha chu và các tổn thương khác, Thực hiện lối sống lành mạnh và chế độ dinh dưỡng cân bằng. Post navigation
Một khi HIV tiến triển thành giai đoạn cuối, tỷ lệ tử vong của người nhiễm HIV sẽ tăng lên khá nhiều. Nếu không điều trị, những người đã tiến triển đến giai đoạn cuối thường chỉ sống được trong khoảng 3 năm. Còn nếu trường hợp người bệnh mắc phải một nhiễm trùng cơ hội nguy hiểm, thì thời gian sống chỉ còn 1 năm. Sau khi các tế bào lympho T-CD4 của một người nhiễm HIV giảm xuống dưới 200 tế bào trên 1μL khối máu thì họ được chẩn đoán HIV đã ở giai đoạn cuối cùng, hay còn gọi là là giai đoạn cuối của nhiễm HIV, virus suy giảm hệ miễn dịch ở người, tức là virus HIV này làm tổn thương hệ thống phòng thủ của cơ thể. Một khi HIV tiến triển thành AIDS, các triệu chứng HIV giai đoạn cuối bắt đầu phổ biến vfa tỷ lệ tử vong của người nhiễm HIV sẽ tăng lên khá nhiều. Nếu không điều trị, những người đã tiến triển đến AIDS thường chỉ sống được trong khoảng 3 năm. Còn nếu trường hợp mắc phải một nhiễm trùng cơ hội nguy hiểm, thì thời gian sống chỉ còn 1 năm. 2. Triệu chứng HIV giai đoạn cuối Khi số lượng các tế bào T-CD4 giảm xuống dưới mức 200 tế bào trên 1μL máu, sự miễn dịch qua trung gian tế bào bị vô hiệu và xuất hiện nhiễm trùng do một loạt các vi sinh vật cơ hội gây triệu chứng HIV giai đoạn cuối thường bao gồmSụt cân trên 10% trọng lượng cơ thểSốt, tiêu chảy và ho kéo dài trên 1 tháng;Nhiễm nấm ở hầu họng; nổi ban đỏ, mụn rộp, hạch trên cơ thể và ngứa toàn thân;Cơ thể mệt mỏi, không tập trung. Nhiễm nấm ở hầu họng là một trong các triệu chứng HIV giai đoạn cuối 3. Điều gì xảy ra khi có triệu chứng HIV giai đoạn cuối Khi nhiễm HIV giai đoạn cuối, các hệ thống miễn dịch của cơ thể người bệnh bị tổn thương nghiêm trọng nên đến hậu quả là người bệnh dễ bị các nhiễm trùng cơ hội, đây là các loại nhiễm trùng ở cơ thể người bình thường rất khó hoặc hầu như không bị Nhiễm trùng phổ biếnCác nhiễm trùng phổ biến liên quan đến HIV giai đoạn cuối gồmBệnh lao TB Bệnh lao là bệnh nhiễm trùng cơ hội phổ biến nhất và là nguyên nhân hàng đầu gây tử vong ở HIV giai đoạn Cytomegalovirus Virus herpes được lây truyền qua các chất dịch cơ thể như nước bọt, máu, nước tiểu, tinh dịch và sữa mẹ gây tổn thương cho mắt, đường tiêu hóa, phổi hoặc các cơ quan nấm candida Candida là một nhiễm trùng phổ biến liên quan đến HIV giai đoạn cuối. Nó gây viêm trên miệng, lưỡi, thực quản hoặc âm Người bệnh bị nhiễm loại bệnh này thông qua ăn uống thực phẩm hoặc nước bị ô nhiễm. Ký sinh trùng phát triển trong ruột và ống mật, dẫn đến tiêu chảy nặng ở những người HIV giai đoạn màng não do cryptococcus Viêm màng não do cryptococcus là một bệnh nhiễm trùng hệ thần kinh trung ương phổ biến liên quan đến HIV, gây ra bởi một loại nấm được tìm thấy trong độc tố Nhiễm trùng có khả năng gây tử vong này là do Toxoplasma gondii, một loại ký sinh trùng lây lan chủ yếu ở mèo. Động kinh sẽ xảy ra khi ký sinh trùng lan đến não. Ký sinh trùng toxoplasma gondii Các bệnh ung thư ở người nhiễm HIV giai đoạn cuốiUng thư Kaposi Là khối u được hình thành ở thành mạch máu, ung thư này hiếm gặp ở những người bình thường, nhưng phổ biến ở những người bị HIV. Ung thư Kaposi có thể ảnh hưởng đến các cơ quan nội tạng, bao gồm cả đường tiêu hóa và thư hạch Ung thư này bắt đầu trong các tế bào bạch cầu. Dấu hiệu nhận biết là sưng hạch không đau ở cổ, nách hoặc Các loại bệnh khácSút cân không rõ nguyên nhân Người bị nhiễm HIV giai đoạn cuối có thể giảm ít nhất 10% trọng lượng cơ thể và đi kèm với tiêu chảy, suy nhược mãn tính, sốt liên chứng thần kinh Bệnh có thể gây ra các triệu chứng thần kinh như nhầm lẫn,hay quên, trầm cảm, lo lắng và khó đi lại. Một trong những biến chứng thần kinh phổ biến nhất là bệnh mất trí nhớ dẫn đến thay đổi hành thận Là tình trạng viêm ở các bộ lọc nhỏ trong thận. Việc điều trị là dùng thuốc kháng virus. 4. Phương pháp làm chậm tiến triển của HIV giai đoạn cuối Khi xét nghiệm hay phát hiện ra triệu chứng HIV, người bệnh nên điều trị càng sớm càng tốt. Phương pháp điều trị chính ở bệnh HIV là dùng thuốc kháng virus nhằm ngăn chặn virus HIV sinh sản. Điều này giúp bảo vệ các tế bào CD4, giữ cho hệ thống miễn dịch đủ mạnh để chống lại bệnh điều trị bằng thuốc kháng virus cũng nguy cơ lây truyền HIV cho người khác. Một số cách khác có thể giúp làm chậm tiến triển bệnh HIV đến giai đoạn cuối bao gồmCân bằng chế độ ăn uống hằng thể dục thường xuyên Và điều ngơi hợp lý, tránh stress, duy trì tinh thần ổn thuốc lá và các chất kích cáo bác sĩ ngay khi có các triệu chứng HIV bất hệ tình dục an toàn Quan hệ tình dục an toàn giúp làm chậm tiến triển của HIV giai đoạn cuối Điều trị dự phòng Với những người không nhiễm HIV, điều trị dự phòng trước phơi nhiễm PrEP và điều trị dự phòng sau phơi nhiễm PEP có thể làm giảm nguy cơ lây với người thân Hãy trao đổi tình trạng bệnh với người thân để nhận được sự chăm sóc sức khỏe và tâm lý từ sự với những người có cùng hoàn cảnh Hãy tham gia nhóm vào các hỗ trợ HIV, trực tiếp hoặc trực tuyến, vì đó là nơi có thể gặp gỡ những người khác cũng đang phải đối mặt với căn bệnh này. Từ đó có thể hỗ trợ và động viên nhau trong các hoạt động đời sống và các vấn đề bệnh viện Đa khoa Quốc tế Vinmec có cung cấp Gói Khám, Sàng lọc các bệnh xã hội giúp cho khách hàng có thể phát hiện sớm các bệnh lý và có hướng điều trị hiệu quả, ngăn ngừa biến chứng nguy hiểm. Gói khám sàng lọc các bệnh xã hội tại Vinmec dành cho mọi lứa tuổi, cả nam giới và nữ đăng ký khám và điều trị tại Bệnh viện Đa khoa Quốc tế Vinmec, Quý Khách có thể liên hệ Hệ thống Y tế Vinmec trên toàn quốc, hoặc đăng ký khám trực tuyến TẠI THÊM3 con đường lây truyền của virus HIVBiểu hiện của HIV theo từng giai đoạnCác bệnh lây qua đường tình dục là những bệnh nào? XEM THÊM Tìm hiểu về đặc điểm HIV giai đoạn thầm lặng không có triệu chứng Xét nghiệm HIV có cần nhịn ăn? Thời điểm nào xét nghiệm HIV cho kết quả chính xác nhất?
Xã hội Chủ nhật, 1/12/2013 0921 GMT+7 0921 1/12/2013 Các cơn đau về thể xác, tinh thần luôn đeo bám những bệnh nhân mắc phải căn bệnh thế kỷ HIV/AIDS. Theo báo cáo của Bộ Y tế, trong 6 tháng đầu năm, trên cả nước có khoảng trường hợp nhiễm HIV/AIDS. Trong đó có trường hợp chuyển sang giai đoạn AIDS và người tử vong. Đây quả là con số không nhỏ, đủ khiến nhiều người bất ngờ về số người mang trên mình căn bệnh chết người này. Hôm nay là Ngày thế giới phòng chống AIDS - 1/12 với chủ đề năm 2013 "Hướng tới không còn người nhiễm mới HIV". HIV là từ viết tắt của loại virus gây ra hội chứng suy giảm miễn dịch mắc phải ở người. Virus HIV này tấn công và phá vỡ hệ thống miễn dịch là bạch cầu, làm chúng mất khả năng chiến đấu, chống lại các loại nấm, vi khuẩn, virus... xâm nhập vào cơ thể. Từ đó dẫn đến tình trạng mắc hội chứng suy giảm miễn dịch mắc phải - hay gọi là AIDS. Nếu không có một hệ thống miễn dịch hoạt động tốt, những người bị AIDS còn dễ mắc phải những tổn thương khác thường gây ra nhiễm trùng, dẫn đến tử vong. Trong khoảng từ 1 - 2 tháng sau khi HIV xâm nhập vào cơ thể, có từ 40% đến 90% số người sẽ trải qua các triệu chứng giống cúm. Đây còn gọi là giai đoạn sơ nhiễm, giai đoạn cửa sổ ARS. Lúc này, bệnh nhân có thể sốt 38 - 40 độ C, vã mồ hôi, mỏi mệt, đau cơ khớp, viêm họng, sưng nhiều hạch... Thời điểm này là lúc virus di chuyển vào trong máu và bắt đầu nhân rộng với số lượng lớn. Các hiện tượng viêm, sưng chính là phản ứng viêm của hệ miễn dịch. Khoảng 2 - 3 tháng sau khi sơ nhiễm, cơ thể sinh ra kháng thể đặc hiệu, lúc này xét nghiệm mới phát hiện dương tính. Giai đoạn HIV dương tính thường kéo dài 5 - 10 nǎm. Trong cơ thể, sự bảo vệ mạnh mẽ của hệ miễn dịch sẽ làm giảm số lượng của các hạt virus trong máu, dần chuyển sang giai đoạn nhiễm HIV mãn tính. Giai đoạn này có thể kéo dài từ 2 tuần cho đến 20 năm tùy từng trường hợp sức khỏe, chế độ dinh dưỡng, rèn luyện thể lực. Trong suốt giai đoạn mãn tính, virus HIV hoạt động trong các hạch bạch huyết, khiến các hạch này thường bị sưng do phản ứng với một số lượng lớn virus kẹt trong mạng lưới tế bào. Giai đoạn cận AIDS cũng không có nhiều biến chuyển. Lúc này, cơ thể dần yếu đi. Thi thoảng, bệnh nhân sẽ mắc chứng viêm xoang, viêm amidan, viêm hầu họng, viêm miệng tái diễn, hay bị mẩn ngứa, phát ban, nấm móng... Hình ảnh bàn tay của một bệnh nhân nhiễm HIV đang điều trị tại nhà tế bần ở ngoại ô thành phố Yangon Myanmar. Giai đoạn AIDS là giai đoạn cuối cùng của nhiễm HIV và cũng là kết thúc bi thảm khó tránh khỏi. Biểu hiện lâm sàng của giai đoạn này là các rối loạn liên quan đến suy giảm miễn dịch. Lúc này, người bệnh nổi hạch toàn thân kèm theo cơn sốt kéo dài trên một tháng. Kèm với đó là hiện tượng tiêu chảy dài cùng sự sút cân mạnh khoảng 10% thể trọng cơ thể. Do cơ thể mất hàng rào bảo vệ nên bất kỳ vi khuẩn, virus nào cũng có thể dễ dàng tấn công và gây bệnh. Khi bệnh tiến triển nặng hơn, cơ thể người bệnh có biểu hiện "da bọc xương" do sụt cân mạnh, nấm miệng, u phổi phát triển không ngừng... Các bệnh lý về cơ xương khớp hay viêm loét miệng hoại tử rất nhanh... Với những triệu chứng phát bệnh ở giai đoạn cuối như trên, thời gian sống sót trung bình của bệnh nhân AIDS chỉ có thể kéo dài từ 6 tháng - 2 năm. Năm 2010, các nhà nghiên cứu thuộc trường ĐH y dược Berlin Đức đã chữa trị thành công cho một người dương tính với HIV bằng cách sử dụng hóa dược liều cao cùng phương pháp xạ trị sau khi tiến hành cấy lại tế bào tủy sống. Bệnh nhân này không còn dấu hiệu của HIV, hệ thống miễn dịch của anh hoạt động bình thường. Tuy nhiên, theo các nhà khoa học, việc không phát hiện HIV trong máu bệnh nhân không có nghĩa rằng anh ta đã hoàn toàn khỏi bệnh HIV có thể tồn tại ẩn mình trong tế bào nội tạng trước khi sinh sôi bùng phát trở lại sau mấy năm. Giáo sư Rodolf Tauber chia sẻ "Đây mới chỉ là trường hợp đáng chú ý trong công tác nghiên cứu, những hứa hẹn sẽ chữa lành cho hàng triệu bệnh nhân nhiễm HIV chưa thực sự đáng tin. Tuy nhiên, chúng tôi vẫn cố gắng tìm ra những phương thuốc hữu hiệu nhất để giúp bệnh nhân mắc căn bệnh thế kỷ này". Chính bởi sự nguy hiểm của căn bệnh này, các bác sĩ khuyến cáo mọi người cần sớm phát hiện căn bệnh nhiễm HIV/AIDS khi có các dấu hiệu nghi ngờ như trên và có biện pháp phòng tránh an toàn để không lây nhiễm bệnh HIV sang cho người khác. Theo Pháp luật Xã hội HIV/AIDS bệnh tật miễn dịch y tế Bạn có thể quan tâm
hình ảnh lưỡi người nhiễm hiv